Đại công tước phu nhân xứ Baden Sofia Wilhelmina của Thụy Điển

Sophie được miêu tả là người khôn ngoan và có trách nhiệm nhưng nghiêm khắc.[2] Bà ấy thường xuyên về muộn và dậy muộn vào buổi sáng, sau đó bà dành hàng giờ để viết thư cho nhiều người thân khác nhau trên khắp châu Âu. Bà quan tâm đến khoa học, nghệ thuật và chính trị, đồng thời luôn cập nhật thông tin đầy đủ về tất cả các sự kiện chính trị trong ngày qua thư từ của mình.[2] Mối quan hệ của bà với triều đình Viên đặc biệt chặt chẽ, và chính tại Viên, các con trai của bà đã được gửi đến để hoàn thành chương trình học của họ. Sophie vẫn giữ một sự cay đắng nhất định trước việc cha cô bị phế truất khỏi ngai vàng Thụy Điển, và cảm thấy rất nặng nề khi anh trai của bà bị tước bỏ tư cách Vương tử Thụy Điển.[2] Trong thời kỳ hỗn loạn do sự xuất hiện của Kaspar Hauser, người ta đồn rằng Sophie đã ra lệnh ám sát Hauser vào năm 1833. Điều này đã làm tổn hại đến mối quan hệ của bà với chồng và Sophie được cho là đã ngoại tình. Trong cuộc cách mạng năm 1848, bà buộc phải rời khỏi Karlsruhe cùng gia đình đến Strasbourg. Họ quay trở lại vào năm 1849, sau khi cuộc nổi dậy bị quân Phổ đàn áp.

Bà trở thành góa phụ vào năm 1852. Sophie thuyết phục con trai bà là Đại công tử Friedrich tham gia một cuộc hôn nhân theo triều đại sắp đặt thay vì kết hôn với tình yêu của ông, Nữ nam tước Stephanie von Gensau. Năm 1852, hoàng gia Thụy Điển đương nhiệm mong muốn hòa bình với hoàng gia Thụy Điển bị phế truất, Oscar I của Thụy ĐiểnJoséphine xứ Leuchtenberg đã cố gắng sắp xếp một cuộc gặp nhưng không thành công.[2] Tuy nhiên, vào năm 1863, Sophie gặp người thừa kế Thụy Điển là Vương tử Oscar và người phối ngẫu của ông là Sophia xứ Nassau. Cuộc gặp gỡ đã thành công: Sophia hỏi vương tử về Stockholm thời thơ ấu của cô đã thay đổi như thế nào, và khi họ rời đi, bà tặng cặp đôi một món quà cho con trai họ là Vương tử Gustaf, một huy chương có dòng chữ "G" và vương miện hình vương miện Thái tử Thụy Điển, vì Gustaf có cùng tên với anh trai bà.[2]

Năm 1864, Sophie được một nữ nhà văn Thụy Điển giấu tên phỏng vấn, một cuộc phỏng vấn được đăng trong tiểu sử của bà về những phụ nữ Thụy Điển nổi tiếng của Wilhelmina Stålberg (người có thể là nhà văn giấu tên được đề cập):

Cung điện của bà được đặt trong một khu vườn nhỏ và trông giống một nơi ở riêng tư xinh đẹp hơn là một cung điện hoàng gia. Những cái cây xinh đẹp, những bãi cỏ được chăm sóc cẩn thận và những con đường nhỏ bao quanh tòa nhà. Không có sự sa hoa nào về số lượng người phục vụ hoặc những thứ khác được nhìn thấy ở bất cứ đâu. Trong căn phòng nơi tôi bước vào lần đầu tiên có rất nhiều hoa và tranh. Mọi thứ ở đó dường như tượng trưng cho ngôi nhà của một tâm hồn sống trong nỗi cô đơn của ký ức. Tôi cũng được biết rằng Đại công tước phu nhân hiếm khi xuất hiện. Bà ấy nhanh chóng bước vào với những bước chân nhẹ nhàng, khó nghe thấy, một dáng người duyên dáng đến với vòng tay rộng mở để ôm và hôn tôi. [...] Bà ấy nhanh chóng chuyển cuộc trò chuyện sang chủ đề về Thụy Điển và những ký ức của bà về nó. Bà đặc biệt nhớ Cung điện Haga và Cung điện Hoàng gia Stockholm, bà nhớ chúng rõ đến mức nếu có thể nhìn thấy nó một lần nữa, bà sẽ có thể tìm đường đến bất kỳ khu vực nào của cung điện. Tôi hỏi liệu bà ấy có nên về thăm ngôi nhà thời thơ ấu của mình không. Ở Thụy Điển đã có tin đồn rằng bà ấy muốn làm như vậy và bà cũng đã viết thư về điều đó cho Vua Oscar, người đã đảm bảo với bà về sự chào đón tử tế. Đại công tước phu nhân coi tin đồn là "hoàn toàn vô căn cứ". Bà chưa bao giờ có kế hoạch nghiêm túc đến thăm Thụy Điển, mặc dù thực tế là bà thường khao khát điều đó. Đặc biệt trong mùa xuân bà luôn cảm thấy một nỗi nhớ nhung lạ lùng về ngôi nhà tuổi thơ của mình. Nhưng để đi đến đó bây giờ đã quá muộn đối với bà. Bà ấy thốt lên điều này với một giọt nước lấp lánh trong đôi mắt xanh của mình. Trong mọi trường hợp, một nụ cười chân thật dường như không phải là nét đặc trưng của khuôn mặt không thực sự xinh đẹp nhưng lại rất thú vị này. Đối với tác phẩm văn học Thụy Điển mới nhất, bà ấy đã đọc nó, nhưng tất cả đều là bản dịch. "Bởi vì", bà ấy nói, "Tôi không còn nhớ đủ rõ tiếng Thụy Điển để nói hoặc đọc trực tiếp. Tuy nhiên, tôi có thể hiểu nó khi nói, và lời cầu nguyện của tôi bằng tiếng Thụy Điển!"[3]